Như
tin đã đưa, vào hồi 1 giờ 10 phút ngày
28/10/2003, sau gần 03 năm lao động khẩn
trương, với tinh thần trách nhiệm cao
của gần 2.000 cán bộ, công nhân, các chuyên
gia, các
kỹ sư của các đơn vị thi công, các
công ty tư vấn
giám sát, ban quản lý, cũng như sự hỗ
trợ tích cực
của các cấp chính quyền và nhân dân thành
phố
Đà Nẵng và tỉnh Thừa Thiên - Huế, mũi
khoan cuối
cùng khoan hầm đường bộ qua đèo
Hải Vân đã
thực hiện thắng lợi trong sự vui
mừng khôn tả của
hàng nghìn cán bộ, công nhân đang thi công trên công
trường, cùng sự đón chào nồng
nhiệt của
nhân dân cả nước.
Sự kiện này đã đánh dấu một
mốc thời gian quan trọng, kết thúc
một giai đoạn
quan trọng của một công trình giao thông mang
tầm cỡ công trình thế kỷ của
Việt Nam.
Đoạn
đường đèo Hải Vân hiện
nay là một bộ phận của
quốc lộ 1A, có tầm quan trọng
rất lớn trên tuyến đường bộ
huyết mạch chạy suốt từ Bắc
vào Nam. Đường qua đèo Hải
Vân được xây dựng từ thời Pháp.
Trải qua thời gian dài
khai thác và sử dụng, dù đã
được nâng cấp, cải tạo
nhiều
lần, tốn rất nhiều kinh phí,
nhưng do điều kiện địa hình
phức tạp, nên không thể cải
thiện, nâng cao tiêu chuẩn cấp
đường. Vì vậy, phương tiện
giao
thông qua lại gặp rất nhiều
khó khăn, nguy hiểm, đặc biệt
là các xe có tải trọng lớn gây
tiêu hao nhiên liệu, tuổi thọ
giảm nhanh. Trên các đoạn
đường đèo thường xảy ra tai
nạn giao thông, về mùa mưa
bão thường xảy ra sụt trượt mái
dốc, làm thiệt hại rất lớn về
người và tài sản của Nhà nước,
của nhân dân. Từ nhiều năm
qua, Bộ Giao thông - vận tải,
các nhà khoa học đã có rất
nhiều đề tài nghiên cứu nhằm
cải thiện, nâng cấp hệ thống
giao thông trên đoạn đường
này. Cuối cùng, phương án xây
dựng Hầm đường bộ qua đèo
Hải Vân đã được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt, cho
phép đầu tư bằng Quyết định
số 905/QĐ-TTg ngày 30/9/1998. Ban Quản lý
dự án 85
đã được Bộ Giao
thông - vận tải giao nhiệm vụ
trực tiếp điều hành dự án.
Sau
gần 03 năm chuẩn bị mọi mặt
từ khâu đấu thầu để
tuyển chọn các nhà tư vấn,
Liên doanh Tư vấn quốc tế gồm
Nippon Koei (Nhật Bản), Louis
Berger (Mỹ) và Công ty Tư vấn TEDI (Việt
Nam) đã được chọn
là các nhà thầu
thiết kế và
giám sát thi công. Phương
pháp NATM đã được chọn làm
phương án thiết kế và thi công
cho Hầm đường bộ qua đèo
Hải Vân. Ưu điểm của phương
pháp này là sử dụng tối đa hiệu
ứng vòm tự nhiên, được hình
thành trên cơ sở đất hoặc đá
chung quanh vòm hầm. Việc
liên kết này tự bản thân nó đã
trở thành một phần kết cấu
chống đỡ hầm. Trong quá trình
đào hầm, sự cân bằng hiện có
nguyên thủy của các lực, của
khối đất đá sẽ chuyển sang
trạng thái cân bằng mới, thứ
cấp và được ổn định.
Với
phương pháp này, người ta có
thể kiểm soát được các tiến
trình chuyển đổi, phân bổ ứng
suất, thông qua các thiết bị đo
đạc, từ đó có thể đưa ra các
biện pháp chống đỡ thích hợp
và bảo đảm sự ổn định
của
hầm. Do tính chất và tầm quan
trọng của dự án nên công tác
phân chia các gói thầu, chọn
thầu đã được tiến hành kỹ
lưỡng làm 02 giai đoạn, theo các
quy định đấu thầu quốc tế.
*
Quy mô, tầm vóc
của công trình
Hầm
đường bộ qua đèo Hải
Vân là một công trình hầm
đường bộ lớn nhất tại
Việt Nam
và khu vực Đông Nam Á, đồng
thời là một trong số 30 hầm
đường bộ lớn và hiện đại
nhất
thế giới. Hầm được xây dựng
xuyên qua núi Hải Vân, có
chiều dài khoảng 12,182 km
(trong đó, phần hầm dài 6,247 km), ngắn hơn
khoảng 9 km so
với đường đèo hiện tại (21
km).
Điểm đầu của dự án thuộc
khu
vực Lăng Cô, huyện Phú Lộc -
Thừa Thiên Huế; điểm cuối
thuộc phường Hòa Hiệp, quận
Liên Chiểu, thành
phố Đà Nẵng.
Tổng mức đầu tư theo
thiết kế là 251,042 triệu đô-la
Mỹ, được vay từ nguồn
vốn của
Ngân hàng Hợp tác quốc tế
Nhật Bản (JBIC) và một phần
vốn đối ứng trong nước. Nhưng
qua đấu thầu, giá trị của công
trình chỉ còn lại khoảng gần
70% so với thiết kế, tiết kiệm
khoảng 30%.
Theo
thiết kế, công trình
gồm một hầm chính và một
hầm phụ (hầm lánh nạn) chạy
song song với nhau, có tổng
chiều dài 6,247km. Chiều rộng
của hầm chính là 11,9 mét, chỗ
tránh xe là 13,7 mét. Giữa 02
hầm chính và phụ là hệ thống
hầm ngang, gồm 15 hầm có
chiều dài 450 mét (trong đó, có
11 hầm cho người đi bộ và 04
hầm cho xe ô-tô đi qua). Ngoài
ra, còn có một hệ thống hầm
thông gió: gồm 03 hầm lọc bụi
tĩnh điện, mỗi hầm dài 153 mét,
chiều rộng là 10,2 mét, công
dụng của hầm này là dùng để
lọc bụi, khí bẩn do các phương
tiện đi trong hầm thải ra; một
hầm thông gió dài 1.800 mét,
rộng 7,8 mét được ngăn đôi,
một bên dùng để cung cấp khí sạch
từ bên ngoài cho đường
hầm, một bên dùng để hút khí
bẩn từ đường hầm ra. Đường
và cầu nối hầm với quốc lộ 1A dài
6,01km, trong đó, gồm cầu
Lăng Cô vượt qua vịnh Lập An,
vượt qua đường bộ, đường
sắt nối với cửa hầm phía Bắc,
chiều dài trên 1 km. Phía Nam
gồm 07 cầu và đường dẫn từ
cửa
hầm đến vị trí kết thúc dự án
dài khoảng hơn 04 km. Ngoài ra,
còn có các hệ thống phụ trợ là
các trạm biến áp 110/22 kV và đường dây
tải điện 110 kV được
nối với điện lưới quốc gia;
văn
phòng điều khiển với các thiết
bị hiện đại. Các hệ thống điện
chiếu sáng, hệ thống thông gió,
hệ thống camera kiểm soát,
thiết bị báo cháy, các buồng
điện thoại khẩn cấp, hệ
thống
phát thanh, các thiết bị đo khí độc
thiết bị đếm xe, thiết bị đo
tầm nhìn, hệ thống cọc tiêu,
biển báo, giao thông và nhiều
thiết bị chuyên dùng hiệ đại khác.
*
Chiến công xuất sắc,
thành quả của sự hợp tác quốc
tế
Để
đưa công trình vào sử
dụng, còn rất nhiều việc phải
làm, nhiều hạng mục phải hoàn
tất trong hơn
một năm nữa (dự
kiến, đầu năm 2005 công trình
mới hoàn tất và đưa vào sử
dụng). Nhưng việc hoàn thành
công đoạn khoan hầm - công
đoạn quan trọng nhất của công
trình - đã là một chiến công
xuất sắc, một thành quả lao
động tuyệt vời của những
chuyên gia, kỹ sư, những công
nhân Việt Nam và Nhật Bản,
Hàn Quốc, Áo, Thụy Sĩ... đã
lao động trên công trường trong
hơn 1.000 ngày qua với tinh
thần sáng tạo, khắc phục khó
khăn; đặc biệt là những ngày
đầu khoan hầm phía Nam, với
biết bao sự cố trắc trở, tưởng
chừng như không thể vượt qua
được. Trong số 09 gói thầu của
công trình thì 02 gói thầu 1A và
1B là các gói thầu khoan hầm
quan trọng nhất, khó khăn
nhất. Công nghệ NATM là một
công nghệ khoan hầm hiện đại
nhất hiện nay trên thế giới.
Chính công nghệ này cũng làm
bỡ ngỡ các chuyên gia, kỹ sư
của các nhà thầu quốc tế; còn
đối với các cán bộ, kỹ sư, công
nhân Việt Nam ở Tổng Công ty
Sông Đà. Tổng
Công ty Xây
dựng công trình giao thông 6
(Cienco 6) là quá mới mẻ, hầu
như không có kinh nghiệm.
Song với tinh thần lao động sáng
tạo, ham học hỏi và sự
hợp tác quốc tế toàn diện, cùng có
lợi của các đơn vị tư vấn, các
đơn vị thi công, cũng như
sự điều hành chuẩn xác của
Ban Quản lý dự án 85, những đỉnh cao
công nghệ đã được chinh phục,
những khó khăn cũng đều vượt
qua, công trình đã được thực
hiện theo đúng tiến độ đề ra,
bảo đảm chất lượng. Việc
thông hầm kỹ thuật vào ngày 07/11/2003 sẽ
là một mốc thời
gian quan trọng đánh dấu sự
thành công bước đầu của công
trình thế kỷ này trong lãnh vực
xây dựng giao thông ở Việt
Nam. Riêng đối với các cán bộ,
công nhân của Tổng Công ty
Sông Đà, ngoài việc bổ sung
văn bảng thành tích của đơn vị
trong việc xây dựng các Công
trình trọng điểm quốc gia trong
các năm qua, thì việc tham gia
xây dựng công trình này còn là
một trường học lớn để
họ vươn tới những tầm cao
mới, là điều
kiện tốt để họ hòa nhập
với thế
giới khi Việt Nam tham gia hội
nhập quốc tế. Trong đó, đặc
biệt là quá trình tiếp thu
chuyển giao công nghệ tiên
tiến của thế giới, một trong
những nhiệm vụ không kém
phần quan trọng mà Chính phủ
đã giao cho các đơn vị thi công
phải thực hiện.
*
Hiệu quả kinh tế - xã hội
to lớn
Đèo
Hải Vân nằm trên quốc
lộ 1A từ km 894 + 00 đến km
904 + 638, dài khoảng 20,45
km, đường dốc quanh co liên
tục. Số đường cong có bán kính
nhỏ lên đến 23 đoạn trên 1 km.
Độ dốc dọc của toàn tuyến
trung bình là 4,6%, trong đó có
hơn 50% đường đèo có độ
dốc
hơn 7%. Đặc biệt có 04 đường
cong con cần có bán kính từ 10
mét đến 17 mét với độ dốc
dọc
từ 10% đến 11% (cực kỳ nguy
hiểm). Những lưu lượng xe qua
lại rất nhiều, ước tính đến
năm
2010, mỗi ngày có tới 14.000
xe quy đổi/ngày đêm và hàng
nghìn xe máy qua lại. Phải đi
qua đèo Hải Vân là nỗi kinh
hoàng cho những người điều
khiển phương tiện vận tải và
hành khách, đặc biệt là những
xe có tải trọng lớn. Ngoài việc
tuổi thọ của xe giảm tiêu hao
nhiên liệu nhiều là những thiệt
hại không thể lường hết được
do những vụ tai nạn giao thông
do những
vụ tai nạn giao thông hằng năm gây ra.
Đã có những vụ
tai nạn giao thông làm chết
và bị thương hàng chục người.
Đặc biệt là vào mùa mưa, việc
sụt lở đất đá làm hư hỏng
đường đã cắt đứt toàn
bộ hệ
thống giao thông đường bộ
Bắc - Nam nhiều ngây, gây ách
tắc giao thông, ảnh hưởng
nghiêm trọng đến an ninh, kinh
tế - xã hội của cả vùng, cũng
như cả nước, như cơn bão số 2
năm 1999.
Hầm
đường bộ qua đèo Hải
Vân sẽ góp phần giải quyết
triệt để các vấn đề trên,
bảo
đảm giao thông, tiết kiệm nhiên
liệu tăng hiệu quả kinh tế của
việc vận tải hàng hóa và hành
khách. Chỉ riêng việc rút ngắn
thời gian qua đèo so với khi sử
dụng đường đèo cũ đã
tiết kiệm
thời gian chỉ bằng 1/10 so với
trước đây. Đây là hiệu quả kinh
tế vô cùng to lớn. Trong đó, chỉ
riêng việc giảm tiêu hao nhiên
liệu của số xe qua hầm, theo
tính toán trên là gần 1.000 tỷ
đồng/năm, chưa kể những lợi
ích do giảm được những thiệt
hại về tai nạn giao thông và
hiệu quả kinh tế do giảm thời
gian đi qua đèo và các lợi ích
xã hội khác. Đồng thời, do vị trí
quan trọng của Hầm Hải Vân
trong hệ thống giao thông
đường bộ và cùng với đường
Hồ Chí Minh, với hành lang
kinh tế Đông Tây của các nước
trong khu vực sẽ mở ra khả
năng phát triển kinh tế trong
vùng với nhiều tiềm năng to lớn
chưa được khai thác...
|